#068 | Chủ thể của hợp đồng được xác lập với doanh nghiệp tư nhân

12/26/2023

Tình tiết sự kiện:

Công ty T (Nguyên đơn - Bên bán) xác lập hợp đồng mua bán thép với Doanh nghiệp tư nhân S (Bị đơn - Bên mua). Khi có tranh chấp, Hội đồng Trọng tài xác định chủ thể chịu trách nhiệm là chủ doanh nghiệp tư nhân.

Bài học kinh nghiệm:

Nhìn một cách tổng thể, Việt Nam ghi nhận hai loại hình doanh nghiệp là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân. Hiện nay doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân là doanh nghiệp tư nhân và có những điểm rất đặc thù liên quan tới chủ thể.

Khoản 4 Điều 143 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định “chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp” (quy định này được nhắc lại tại khoản 4 Điều 185 Luật Doanh nghiệp năm 2014 theo đó “chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp”) và, theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2005, “đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. Bộ luật dân sự năm 2015 có sự thay đổi về người đại diện theo hướng ghi nhận đại diện cá nhân và đồng đại diện vì quy định “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự” (khoản 1 Điều 134).

Trên cơ sở Bộ luật dân sự, chúng ta hiểu rằng người đại diện và người được đại diện là hai chủ thể khác nhau, người đại diện nhân danh và vì lợi ích “của người khác”. Kết hợp với quy định về doanh nghiệp tư nhân nêu trên, chúng ta có thể suy luận rằng chủ doanh nghiệp tư nhân (người đại diện) và doanh nghiệp tư nhân (người được đại diện) là hai chủ thể khác nhau và quyền, nghĩa vụ do người đại diện xác lập (chủ doanh nghiệp tư nhân) không là quyền, nghĩa vụ của người đại diện mà là của người được đại diện (tức doanh nghiệp tư nhân) trên cơ sở khoản 4 Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2005, khoản 1 Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2015 theo đó “người được đại diện có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập” và “Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện”.

Tuy nhiên, cách nhìn nhận trên không thể hiện đúng thực tế hiện nay về doanh nghiệp tư nhân và vụ việc trên cho phép làm rõ chủ thể chịu trách nhiệm về giao dịch do chủ doanh nghiệp tư nhân xác lập. Ở đây, hợp đồng được xác lập giữa Bên bán và doanh nghiệp tư nhân thông qua chủ doanh nghiệp tư nhân với tư cách là Bên mua. Từ hợp đồng này, Bên mua phải trả tiền cho Bên bán và thực tế Bên bán khởi kiện yêu cầu trả tiền hàng và lãi chậm thanh toán. Ai sẽ là người phải chịu trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ của Bên mua?

Cuối cùng, Hội đồng Trọng tài theo hướng “buộc Bị đơn là Bà X, Chủ doanh nghiệp tư nhân S phải thanh toán số tiền hàng còn thiếu là 1.535.477.000 VND cho Nguyên đơn là Công ty T”. Điều đó có nghĩa là chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mua bán chính là “chủ doanh nghiệp tư nhân”, chính là cá nhân “Bà X”. Trong vụ việc này, Hội đồng Trọng tài xác định chủ doanh nghiệp tư nhân (cá nhân bà X) là người phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán nhưng, trong vụ việc khác, Hội đồng Trọng tài xác định cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân là người thụ hưởng quyền phát sinh từ hợp đồng. Cụ thể, trong tranh chấp về hợp đồng mua bán được xác lập giữa một công ty Trung Quốc (Bị đơn - Bên mua) và một doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có ông C là chủ doanh nghiệp (Nguyên đơn - Bên bán), Hội đồng Trọng tài đã quyết định “chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn là Chủ doanh nghiệp tư nhân P - Ông C đối với Bị đơn. Cụ thể: Bị đơn phải trả cho Nguyên đơn (…)”. Ở vụ việc này, người thụ hưởng là Nguyên đơn và Nguyên đơn chính là cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân: Theo Hội đồng Trọng tài, “xác định Chủ doanh nghiệp tư nhân P - Ông C - là Nguyên đơn trong Vụ tranh chấp”.

Như vậy, hợp đồng được xác lập với doanh nghiệp tư nhân thông qua người đại diện là chủ doanh nghiệp tư nhân nhưng chủ thể đích thực của quan hệ hợp đồng lại là cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân. Chính cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân là người thụ hưởng quyền, nghĩa vụ phát sinh đối với doanh nghiệp tư nhân. Hướng giải quyết này tương thích với các quy định trong Luật Doanh nghiệp như quy định theo đó “doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp” (khoản 1 Điều 141 Luật Doanh nghiệp năm 2005, khoản 1 Điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2014).

Với những quy định trong Luật Doanh nghiệp, chính cá nhân chủ doanh nghiệp là người chịu trách nhiệm về nghĩa vụ của doanh nghiệp tư nhân như nghĩa vụ phát sinh đối với chính cá nhân chủ doanh nghiệp[1]. Nói một cách hình tượng, chúng ta có thể cho rằng doanh nghiệp tư nhân chỉ là chiếc áo mà cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân sử dụng nên chủ thể đích thực của quan hệ hợp đồng xác lập với doanh nghiệp tư nhân chính là cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân.

Từ những thông tin trên, đối tác của doanh nghiệp tư nhân cần biết rằng người thụ hưởng quyền, nghĩa vụ phát sinh trên cơ sở hợp đồng xác lập với doanh nghiệp tư nhân chính là cá nhân chủ doanh nghiệp như Hội đồng Trọng tài đã phán xét ở trên và, khi có tranh chấp, chính cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân là Nguyên đơn, Bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như khoản 3 Điều 185 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định “Chủ doanh nghiệp tư nhân là Nguyên đơn, Bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp”.

 

[1] Quan điểm này được thể hiện rõ tại khoản 2 Điều 155 Luật Doanh nghiệp năm 2005 theo đó “sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thoả thuận khác” (khoản 1 Điều 187 Luật Doanh nghiệp năm 2014).

*Tuyên bố bảo lưu: Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

Tin liên quan

  • VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI